Thời tiết chuyển mùa là điều kiện để các bệnh xương khớp, nhất là là thoái hóa khớp trở thành nghiêm trọng hơn. Thoái hóa khớp gây cản trở khả năng đi lại và làm xuất hiện những cơn đau dai dẳng ở các khớp xương, ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống của người bệnh. Bệnh có xu hướng gia nâng cao và trẻ hóa trong những năm gần đây.
Các thể bệnh thoái hóa khớp
Thoái hóa khớp có thể nguyên phát hoặc thứ phát.
Thoái hóa khớp nguyên phát do lão hóa của mô khớp, hoặc do sụn khớp được tưới máu và nuôi dưỡng kém… dẫn tới mất tính đàn hồi và khô cứng. Khi hoạt động, sụn chạm về đầu xương, gây hoại tử ở nơi chịu áp lực mạnh nhất. Bệnh này chỉ gặp tại người trên 40 tuổi.
Thoái hóa khớp thứ phát thường do sự lão hóa sớm của sụn khớp, có hiện tượng sau chấn thương làm tổn thương diện khớp, hoặc từ những chấn thương nhỏ nhưng tác động nhiều lần, khớp hoạt động quá tải; do di chứng của viêm khớp nhiễm khuẩn, viêm đa khớp dạng thấp…
Những người béo phì cũng thường mắc chứng thoái hóa khớp do quá nặng cân, các khớp luôn trong tình trạng bị sức ép lớn. Những thể thứ phát này thường trầm trọng hơn những thể nguyên phát. Ngoài ra, những nhân tố về thời tiết, khí hậu… cũng là điều kiện dễ dàng cho bệnh xuất hiện.
Tổn thương ở khớp bắt đầu từ những hoại tử của sụn khớp, sau đó là sự phá hủy hệ thống trượt tại những vùng tỳ đè của xương dưới dạng 1 dải xơ và đường viền xung quanh khớp, các gai xương ở ngoại vi khớp. Bao hoạt dịch dày lên, hình thành những đường vân, có thể sụn hóa. Sụn hóa của bao hoạt dịch rơi vào ổ khớp gây cản trở cho hoạt động của khớp. Các cơ co kéo gây nên tình trạng cứng khớp.
Triệu chứng âm thầm
Bệnh thoái hóa khớp nguyên phát hay gặp ở người 40 - 50 tuổi, và tại phụ nữ sau lúc mãn kinh, nhưng hiện nay bệnh có xu thế trẻ hóa. Nhiều người chỉ 30 - 35 tuổi đã mắc bệnh. Điều nguy hiểm là thoái hóa khớp hầu như không có triệu chứng. Các dấu hiệu chỉ xuất hiện lúc xương và hệ thống bao khớp hoạt dịch bị tổn thương thực sự. Bệnh thường khởi đầu âm ỉ, tiến triển chậm với những giai đoạn được nỗ lực theo cảm tiếp nhân chủ quan. Thể điển hình, người bệnh đau khớp về buổi sáng, sau khi ngủ dậy; đau giảm sau khi khớp được hoạt động và hết đau khi nghỉ ngơi. Khớp không sưng và không có các dấu hiệu toàn thân.
Khi có dấu hiệu đau nhức xương khớp, người bệnh cần nhanh chóng tới bệnh viện có chuyên khoa xương khớp để được thăm khám và điều trị phù hợp.
Chẩn đoán thoái hóa khớp dựa vào những yếu tố, như: Đau khớp tăng lúc hoạt động và giảm khi nghỉ ngơi; không có triệu chứng toàn thân như sốt…; những dấu hiệu viêm tại chỗ rất ít hoặc không có; dịch ổ khớp không có biểu hiện viêm, không có mủ; chụp Xquang thấy hẹp khớp, ăn mòn diện khớp…
Cần lưu ý phân biệt thoái hóa khớp với viêm đa khớp dạng thấp: Viêm khớp ở chỗ rất rõ (sưng, nóng đỏ, đau), dịch ở khớp biểu hiện viêm; tốc độ lắng máu tăng…
Điều trị thế nào?
Cho đến nay vẫn chưa có thuốc điều trị khỏi hoàn toàn bệnh thoái hóa khớp. Điều trị chính yếu nhằm mục đích giảm đau, duy trì vận động khớp và làm chậm tiến triển của bệnh. Các phương thức điều trị bao gồm nội khoa (dùng thuốc, không dùng thuốc) và ngoại khoa (phục hồi và thay khớp). Lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp cần dựa trên hoàn cảnh cụ thể của từng bệnh nhân như tuổi, cân nặng, mức độ thoái hóa cũng như các bệnh kèm theo.
Điều trị nội khoa: Ở giai đoạn đau khớp, người bệnh cần phải nghỉ ngơi, tránh toàn bộ những hoạt động gây đau. Dùng vật lý trị liệu để làm nâng cao tưới máu tại chỗ cho khớp.
Trong giai đoạn đau khớp cấp, bất động khớp, thậm chí bó bột là điều rất cần thiết (chỉ nên bất động chỉ cần khoảng ngắn để tránh cứng khớp). Ngay sau khi hết đau cấp, phải tập vận động khớp nhẹ nhàng, phù hợp.
Để dự phòng những tư thế xấu (khớp gối vẹo vào trong hoặc quay ra ngoài), hoặc để giảm đau, có thể sử dụng các loại: Băng, nịt, nẹp, khung đỡ,… hay đơn thuần như là 1 chiếc gậy, 1 chiếc nạng nếu như bị hư khớp chi dưới. Sử dụng thuốc, những thuốc căn bản là thuốc chống viêm giảm đau, như aspirin và thuốc không có steroid (ibuprofen, diclofenac, indometacin…). Những thuốc an thần, nhất là nhóm diazepam có thể dùng trong trường hợp đau do co cơ, hoặc người bệnh quá lo lắng, nhưng không được dùng dài ngày vì dễ gây nghiện.
Điều trị ngoại khoa: Có ba loại phẫu thuật được áp dụng: Đó là phẫu thuật dự bộ phận nhằm lập lại tình trạng thông thường các khớp có nguy cơ bị thoái hóa như trật khớp háng bẩm sinh, tiêu chỏm xương, nhuyễn sụn xương bánh chè, lệch trục đầu gối...; phẫu thuật bảo tồn khi khớp chưa bị lỗi nặng, có thể sửa chữa đưa về điều kiện cơ học của chức năng bình thường; và phẫu thuật thay thế trong trường hợp khớp quá hư hỏng, không thể phục hồi được, có thể thay thế từng phần, thậm chí toàn bộ khớp bằng khớp nhân tạo.
Bác sĩ Phạm Thục Lan
Phòng bệnh thoái hóa khớp
Thoái hóa khớp là 1 quá trình bệnh khó tránh khỏi tại người to tuổi, nhưng không phải ai cũng mắc bệnh ở tuổi già. Do vậy bộ phận bệnh đóng vai trò rất quan trọng vì có thể ngăn ngừa và giảm thiểu các yếu tố thúc đẩy quá trình thoái hóa, làm quy trình này xảy ra chậm hơn, muộn hơn và nhẹ hơn.
Phòng ngừa bệnh thoái hóa khớp có thể tập trung vào việc giảm các yếu tố nguy cơ:
- Điều chỉnh cân nặng tại trọng lượng lý tưởng, tránh thừa cân béo phì.
- Tránh các tư thế xấu trong sinh hoạt và lao động hàng ngày như động tác gập gối, ngồi xổm, leo trèo, đứng nhiều, lắc tay, đảm bảo vệ sinh và an toàn lao động để giảm các lực tỳ đè bất hợp lý lên sụn khớp.
- Cố gắng tập thể dục hàng ngày và giữa các giờ lao động. Khi có tuổi, cần duy trì chính sách tập thể dục đều đặn, vừa sức, rất tốt đặc biệt đi xe đạp, đi bộ, bơi lội và tập dưỡng sinh...
- Tránh các động tác quá mạnh, đột ngột, tránh sai tư thế khi mang vác nặng.
- Phát hiện và điều trị sớm các dị tật, các di chứng của chấn thương, các bệnh lý ở khớp và cột sống.
- Bảo đảm chính sách dinh dưỡng đầy đủ, cân đối. Đặc biệt bổ sung canxi, vitamin D và vitamin C về khẩu phần ăn hàng ngày của người có tuổi.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét